THI TÌM HIỂU TRUYỀN THỐNG HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt nam ra đời trong thời gian, hoàn cảnh nào?
Đảng Cộng sản Đông dương được thành lập ngày 3/2/1930. Trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã ghi rõ “nam, nữ bình quyền”.
Đảng ta đã sớm nhận rõ, phụ nữ là lực lượng quan trọng của cách mạng và đề ra nhiệm vụ: giải phóng phụ nữ, gắn liền với giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp với giải phóng phụ nữ.
Đảng Cộng sản Đông dương đã đặt ra: phụ nữ phải tham gia các đoàn thể cách mạng và cần phải thành lập tổ chức riêng cho phụ nữ để lôi cuốn các tầng lớp phụ nữ tham gia cách mạng.
Trong hoàn cảnh lịch sử đó, ngày 20/10/1930 Hội Phụ nữ Giải phóng (Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam ngày nay) được thành lập.
Từ khi ra đời đến nay, Hội LHPN Việt Nam đã trải qua mấy kỳ Đại hội? Hãy cho biết thông tin chính về các kỳ Đại hội ấy (thời gian, địa điểm, bối cảnh diễn ra đại hội, số lượng đại biểu, số lượng BCH và số lượng thành viên Đoàn chủ tịch Trung ương Hội?)
Từ khi thành lập đến nay, Hội LHPN Việt Nam đã trải qua 10 kỳ Đại hội.
- Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ I: họp từ ngày 18 đến 29/4/1950 tại Chiến khu Việt Bắc.
Tham dự Đại hội có 345 đại biểu (có 168 đại biểu chính thức, trong đó có phụ nữ Việt kiều ở Pháp, Thái Lan…).
Đại hội đã bầu ra Ban chấp hành Trung ương Hội Phụ nữ Cứu quốc khóa I gồm 32 ủy viên. Ban chấp hành Trung ương Hội đã bầu ra Ban Thường trực gồm 9 ủy viên.
Hội trưởng Hội Phụ nữ Cứu quốc: Bà Lê Thị Xuyến

Các Phó Hội trưởng: Bà Nguyễn Thị Thục Viên, Bà Lê Thu Trà, Bà Hoàng Thị Ái
- Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ II: họp từ ngày 26 đến 31/5/1956 tại Hà Nội
Tham dự Đại hội có hơn 700 đại biểu phụ nữ trong nước và Việt kiều ở nước ngoài (có hơn 400 đại biểu chính thức). Dự Đại hội còn có 6 đoàn đại biểu phụ nữ quốc tế.
Đại hội đã quyết định số lượng Ban chấp hành Trung ương Hội khóa II gồm 57 ủy viên.
Đại hội đã bầu 49 ủy viên và 8 ủy viên sẽ được bổ sung sau (5 ủy viên cho đại biểu miền Nam , 3 ủy viên cho đại biểu kiều bào nước ngoài). Ban chấp hành Trung ương Hội đã ra bầu Ban Thường vụ gồm 13 ủy viên.
Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam : Bà Nguyễn Thị Thập
Các Phó Chủ tịch Hội: Bà Lê thị Xuyến, Bà Nguyễn Thị Thục Viên, Bà Hoàng Thị Ái, Bà Bùi Thị Cẩm, Bà Hà Thị Quế
- Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ III: họp từ ngày 8 đến 13/3/1961 tại Hà Nội.
Tham dự Đại hội có 650 đại biểu (có 450 đại biểu chính thức). Đến dự Đại hội còn có 19 đoàn đại biểu phụ nữ quốc tế.
Đại hội bầu Ban chấp hành Trung ương Hội khóa III gồm 67 ủy viên. Ban chấp hành Trung ương Hội đã bầu ra Ban Thường trực gồm 16 ủy viên.
Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam : Bà Nguyễn Thị Thập

Các Phó Chủ tịch Hội: Bà Hoàng Thị Ái, Bà Hà Thị Quế, Bà Lê thị Xuyến, Bà Nguyễn Thị Thục Viên, Bà Hà Giang.
Do yêu cầu của phong trào phụ nữ miền Nam , ngày 8/3/1961, Hội Phụ nữ Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập.
Chủ tịch Hội Phụ nữ Giải phóng miền Nam Việt Nam : Bà Nguyễn Thị Định

Ngày 8/3/1965 Đại hội Phụ nữ toàn miền Nam được tổ chức.
- Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ IV: họp từ ngày 4 đến 7/3/1974 tại Hà Nội.
Tham dự Đại hội có 796 đại biểu (có 596 đại biểu chính thức). Dự Đại hội còn có 26 đoàn đại biểu phụ nữ thế giới.
Đại hội đã bầu ra Ban chấp hành Trung ương Hội khóa IV gồm 75 ủy viên. Ban chấp hành Trung ương Hội đã bầu ra Ban thường vụ gồm 15 ủy viên.
Chủ tịch Danh dự Hội LHPN Việt Nam : Bà Nguyễn Thị Thập

Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam : Bà Hà Thị Quế

Các Phó Chủ tịch Hội: Bà Lê Thị Xuyến, Bà Hà Giang, Bà Nguyễn Thị Minh Nhã, Bà Vũ Thị Chín.
Từ ngày 10 đến 12/6/1976, Hội nghị thống nhất Hội LHPN Việt Nam và Hội LHPN Giải phóng miền Nam Việt Nam họp tại Thành phố Hồ Chí Minh. Hội nghị đã bầu lại Ban chấp hành Trung ương Hội gồm 114 ủy viên. Ban Chấp hành Trung ương Hội đã bầu ra Ban thường vụ gồm 30 uỷ viên.
Chủ tịch danh dự Hội LHPN Việt Nam : Bà Nguyễn Thị Thập
Chủ tịch Hội LHPNVN: Bà Hà Thị Quế
Các Phó Chủ tịch Hội: Bà Nguyễn Thị Định – Phó Chủ tịch thứ nhất, Bà Lê Thị Xuyến, Bà Nguyễn Thị Được, Bà Hà Giang, Bà Nguyễn Thị Thanh, Bà Nguyễn Thị Minh Nhã, Bà Nguyễn Thị Bình, Bà Vũ Thị Chín, Bà Phan Thanh Vân (Ngô Bá Thành).
- Đại hội Đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ V: họp từ ngày 19 đến 20/5/1982 tại Hà Nội
Tham dự Đại hội có 1.051 đại biểu (có 800 đại biểu chính thức). Đến dự Đại hội có 9 đoàn đại biểu phụ nữ quốc tế.
Đại hội đã bầu Ban chấp hành Trung ương Hội khóa V gồm 109 ủy viên. Ban chấp hành Trung ương Hội đã bầu ra Ban Thư ký gồm 15 ủy viên.
Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam : Bà Nguyễn Thị Định

Các Phó Chủ tịch Hội: Bà Nguyễn Thị Như, Bà Nguyễn Thị Bình, Bà Nguyễn Thị Thanh, Bà Ngô Bá Thành.
- Đại hội Đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ VI: họp từ ngày 19 đến 20/5/1987 tại Thủ đô Hà Nội.
Tham dự Đại hội có 1.138 đại biểu (có 700 đại biểu chính thức).
Đại hội đã quyết định số lượng Ban chấp hành Trung ương Hội khóa VI gồm 111 ủy viên. Tại Đại hội đã bầu 98 ủy viên. Ban chấp hành Trung ương Hội đã bầu Đoàn chủ tịch gồm 15 ủy viên.
Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam : Bà Nguyễn Thị Định
Các Phó Chủ tịch Hội: Bà Nguyễn Thị Thân, Bà Trương Mỹ Hoa, Bà Trần Thị Thanh Thanh, Bà Trương Mỹ Hoa, Bà Ngô Bá Thành, Bà Hoàng Xuân Sính.
- Đại hội Đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ VII: họp từ ngày 18 dến 20/5/1992 tại Thủ đô Hà Nội.
Tham dự Đại hội có 1.145 đại biểu (có 760 đại biểu chính thức).
Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Hội khóa VII gồm 96 Ủy viên. Ban Chấp hành đã bầu Đoàn Chủ tịch gồm 11 ủy viên.
Do những công lao và sự cống hiến xuất sắc, Đại hội đã tôn vinh và bầu:
Chủ tịch danh dự Hội LHPN Việt Nam : Bà Nguyễn Thị Định
Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam : Bà Trương Mỹ Hoa
Các Phó Chủ tịch Hội: Bà Vương Thị Hanh, Bà Võ Thị Thắng, Bà Nguyễn Thị Phương Minh.
- Đại hội Đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ VIII: họp từ ngày 19 đến 20/5/1997 tại Thủ đô Hà Nội.
Dự Đại hội có 1.289 đại biểu (900 đại biểu chính thức). Tham dự Đại hội còn có 25 đoàn đại biểu phụ nữ quốc tế của 22 nước và đại diện Liên đoàn phụ nữ dân chủ quốc tế, Liên đoàn Uỷ ban vì tự do và Liên đoàn các tổ chức phụ nữ ASEAN.
Đại hội đã quyết định số lượng Ban chấp hành Trung ương Hội khóa VIII gồm 130 ủy viên. Tại Đại hội đã bầu 126 ủy viên. Ban chấp hành Trung ương Hội đã quyết định số lượng Đoàn chủ tịch gồm 21 ủy viên và tại Đại hội đã bầu 19 ủy viên.
Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam : Bà Trương Mỹ Hoa

Các Phó Chủ tịch Hội: Bà Lê Thị Thu, Bà Trương Thị Khuê, Bà Nguyễn Thị Oanh, Bà Nguyễn Thị Phương Minh.
Tháng 2/1998, do bà Trương Mỹ Hoa đảm nhiệm vị trí Phó Chủ tịch Quốc hội, BCH Trung ương Hội LHPN Việt Nam đã bầu lại Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam .
Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam : Bà Hà Thị Khiết.

- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX: họp từ ngày 22 đến 23/2/2002 tại Thủ đô Hà Nội.
Tham dự Đại hội có gần 1200 đại biểu (có 900 đại biểu chính thức). Dự Đại hội còn có 19 đoàn với gần 100 đại biểu phụ nữ quốc tế các nước và đại diện Liên đoàn phụ nữ dân chủ quốc tế, Liên đoàn Uỷ ban Vì tự do và Liên đoàn các tổ chức phụ nữ ASEAN...)
Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Hội khóa IX gồm 132 ủy viên. Tại kỳ họp thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Hội đã bầu Đoàn chủ tịch gồm 23 ủy viên
Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam : Bà Hà Thị Khiết

Các Phó Chủ tịch Hội: Bà Lê Thị Thu, Bà Nguyễn Thị Oanh, Bà Nguyễn Thị Phương Minh, Bà Trương Thị Khuê, Bà Nguyễn Thanh Hòa.
Tháng 8/2002 bà Lê Thị Thu được Quốc hội bổ nhiệm giữ chức Bộ trưởng, Chủ nhiệm uỷ ban Dân số - Gia đình - Trẻ em.
Tháng 7/2004, bà Nguyễn Thị Kim Thúy được bầu là Phó Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam
- Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ X: họp từ ngày 2 đến 4/10/2007 tại Thủ đô Hà Nội.

Toàn cảnh Đại hội X
Tham dự Đại hội có 1193 đại biểu.
Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Hội khóa X gồm 154 ủy viên. Phiên họp thứ nhất BCH Hội LHPNVN khoá X đã bầu Đoàn Chủ tịch Hội LHPNVN khóa X gồm 25 ủy viên.
Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam : Bà Nguyễn Thị Thanh Hòa

Các Phó Chủ tịch Hội: Bà Đặng Thị Ngọc Thịnh, Bà Nguyễn Thị Kim Thúy, Bà Hoàng Thị Ái Nhiên, Bà H’Ngăm Niê KĐăm.
Tổng Bí thư BCH TW Đảng CSVN Nông Đức Mạnh phát biểu tại Đại hội Đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ X

Nguyên Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Hà Thị Khiết chúc mừng tân Chủ tịch Hội Nguyễn Thị Thanh Hòa

Đồng chí Hà Thị Khiết tặng hoa cho các đồng chí trong Đoàn Chủ tịch khóa X

Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh trao tặng Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam bức trướng tuyên dương thành tích phụ nữ Việt Nam giai đoạn 2002- 2007.
Đồng chí hãy cho biết tên những Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam qua các kỳ Đại hội? Viết về một Chủ tịch đã để lại cho đồng chí những ấn tượng sâu sắc nhất.
Các vị Chủ tịch Hội LHPNVN qua các kỳ Đại hội:
- Bà Lê Thị Xuyến, Chủ tịch Hội khóa I: 1950-1956
- Bà Nguyễn Thị Thập, Chủ tịch Hội khóa II: 1956-1961 và khóa III: 1961-1974
- Bà Hà Thị Quế, Chủ tịch Hội khóa IV: 1974-1982
- Bà Nguyễn Thị Định, Chủ tịch Hội khóa V: 1982-1987 và khóa VI: 1987-1992
- Bà Trương Mỹ Hoa, Chủ tịch Hội khóa VII: 1992-1997 và khóa VIII: 1997-1998
Tháng 2/1998, bà Trương Mỹ Hoa đảm nhiệm vị trí Phó Chủ tịch Quốc hội; bà Hà Thị Khiết được BCH Trung ương Hội LHPN Việt Nam bầu giữ chức Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam
- Bà Hà Thị Khiết, Chủ tịch Hội: 1998-2002 và khóa IX: 2002-2007
Tháng 8/2002 bà Lê Thị Thu được Quốc hội bổ nhiệm giữ chức Bộ trưởng, Chủ nhiệm uỷ ban Dân số - Gia đình - Trẻ em.
Tháng 7/2004, bà Nguyễn Thị Kim Thúy được bầu là Phó Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam
- Bà Nguyễn Thị Thanh Hòa, Chủ tịch Hội khóa X: 2007-2012
Bà Nguyễn Thị Định, một vị nữ tướng anh hùng, nguyên Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước nước CHXHCN Việt Nam, người đã lãnh đạo phụ nữ đồng khởi đấu tranh giành độc lập cho đất nước.
Nữ tướng Nguyễn Thị Định sinh ngày 15-3-1920 tại xã Lương Hòa, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Bà là út của 10 anh em trong gia đình nông dân giàu lòng yêu nước và cách mạng. Thuở nhỏ, bà phải sống trong xã hội thực dân và phong kiến, gia đình đông con nên khó có điều kiện cắp sách đến trường như bao người khác. Bổn phận là anh, hơn nữa thương em nhiều nên anh Ba Chẩn đã dạy bà học cho biết cái chữ tại nhà. Tuy không học được nhiều nhưng bà rất thông minh, nhạy cảm và hiểu biết đủ điều, thích đọc nhiều truyện, đặc biệt là truyện Lục Vân Tiên của cụ Nguyễn Đình Chiểu. Những nhân vật, những hình ảnh, những cuộc đời trong truyện gợi cho bà có một ước mơ vươn đến cuộc sống cao đẹp, gieo trong lòng bà tình thương sâu sắc đối với tầng lớp nghèo trong xã hội và căm ghét những cảnh bất công. Cứ mỗi ngày đem cơm, nước cho anh Ba trong tù, tận mắt chứng kiến cảnh lính Pháp tra tấn, đánh đập dã man, thân hình bầm tím, máu chảy loang trên nền xi măng thì lòng bà lại quặn đau như thắt. Lúc này bà mới hiểu các anh bị bắt, bị đánh đập là vì làm việc cứu nước, cứu dân, chống lại Pháp, chống lại chủ điền. Từ đó bà hiểu nhiều về nỗi nhục mất nước, người giàu ức hiếp người nghèo và cần phải chống lại chúng.
Năm 1936, vừa tròn 16 tuổi, bà bắt đầu tham gia cách mạng. Hai năm sau (1938) bà được đứng vào hàng ngũ Đảng Cộng Sản Đông Dương. Cũng trong thời gian này, bà xây dựng gia đình với ông Nguyễn Văn Bích – Tỉnh ủy viên tỉnh Bến Tre, được không bao lâu thì chồng bị Pháp bắt đày đi Côn Đảo và hy sinh tại đó. Nhận được tin chồng hy sinh, lòng căm thù của bà lại nhân gấp bội. Bất chấp con còn nhỏ, gởi lại mẹ chăm sóc, bà thoát ly tham gia họat động cách mạng tại tỉnh nhà.
Năm 1940, bà lại bị Pháp bắt và biệt giam tại nhà tù Bà Rá, tỉnh Sông Bé (nay thuộc tỉnh Bình Phước). Ba năm tù cũng là ba năm họat động kiên cường, bất khuất của bà trong nhà tù. Năm 1943, ra tù trở về Bến Tre, bà liên lạc với tổ chức Đảng, chính quyền cách mạng của tỉnh và tham gia giành chính quyền vào tháng 8/1945. Tuy còn ít tuổi nhưng nhờ có ý chí kiên cường, lòng yêu nước mãnh liệt, lại nhiều mưu trí nên bà được Tỉnh ủy chọn làm thuyền trưởng chuyến đầu tiên vượt biển ra Bắc báo cáo với Đảng và Bác Hồ về tình hình chiến trường Nam bộ và xin vũ khí chi viện. Từ đó tên tuổi của bà đỏ thắm “đường Hồ Chí Minh trên biển”.
Trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ - Diệm ác liệt, với luật 10/59 của Ngô Đình Diệm, địch cứ truy tìm quyết liệt, chúng còn treo giải thưởng cho ai bắt được bà. Nhưng chúng đã không làm gì được bà vì bà luôn thay hình đổi dạng, có lúc giả làm thầy tu, thương buôn, lúc làm nông dân… và luôn được sự đùm bọc của những gia đình cơ sở cách mạng, của những người mẹ, người chị để qua mắt kẻ địch. Sự thắng lợi của phong trào Đồng khởi Bến Tre (17/1/1960) đã trở thành biểu tượng kháng chiến kiên cường bất khuất, tiêu biểu cho phong trào cách mạng miền Nam, chuyển từ thế phòng ngự, bảo toàn lực lượng, sang thế tấn công, dẫn đến thắng lợi hoàn toàn. Đồng khởi Bến Tre còn thể hiện rõ phương châm đánh địch bằng ba mũi giáp công, đặc biệt là phong trào đấu tranh chính trị, binh vận của đội quân tóc dài.
Sinh thời, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã từng nói: “Một người phụ nữ đã chỉ huy thắng lợi cuộc Đồng khởi ở Bến Tre thì người đó rất xứng đáng được làm tướng và ở trong Bộ Tư lệnh đánh Mỹ”. Thế là, giữa năm 1961, bà được điều động về làm việc ở Bộ Tư lệnh miền Nam cho đến cuối năm 1964 với chức danh Bí thư Đảng – Đoàn, Chủ tịch Hội Phụ nữ. Năm 1965, bà được giao giữ chức Phó Tổng Tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam đến năm 1975. Bà đã được Bác Hồ xem như một vị tướng. Bác nói: “Phó Tổng tư lệnh Quân Giải phóng miềm Nam là cô Nguyễn Thị Định, cả thế giới chỉ nước ta có vị tướng quân gái như vậy. Thật vẻ vang cho cả miền Nam , cho cả dân tộc ta”.
Năm 1974, Bà được phong quân hàm Thiếu tướng, mặc dù là tướng, Phó Tổng tư lệnh quân giải phóng miền Nam nhưng bà rất nhân ái, rộng lượng, bao dung, sống chan hòa với mọi người, luôn thể hiện đậm nét là một người đồng đội, người chị, người mẹ hiền, tận tụy chăm sóc từ cơm ăn, áo mặc cho các chiến sĩ nhất là nam giới; những nỗi đau, mất mát và sự hy sinh cao cả của nhân dân được bà cảm nhận và chia sẽ một cách tinh tế và kịp thời. Đó là đức tính cách mạng của nữ tướng Nguyễn Thị Định đã được soi sáng nhân cách làm người cho thế hệ hôm nay và mai sau.
Từ sau ngày miền Nam được giải phóng, thống nhất đất nước, Bà Định đã giữ nhiều chức vụ trọng trách mới cùng Đảng và Nhà nước ta lãnh đạo thành công việc thực hiện công cuộc đổi mới, phát triển đất nước. Trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, nhất là sự nghiệp đổi mới đất nước bà quan hệ và làm việc với nhiều nước trên thế giới. Bà nhận được nhiều phần thưởng cao quý mà Đảng và Nhà nước ta cũng như thế giới đã trao tặng.
Trung với Đảng, hiếu với dân suốt đời hy sinh cho sự nghiệp cách mạng cao cả, trước lúc mất (2 ngày), bà còn đến thăm và làm việc với lãnh đạo tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu nhưng do tuổi cao, sức yếu, lại thêm căn bệnh đau tim nên lúc 22 giờ 50 phút ngày 26/8/1992, bà đã vĩnh biệt chúng ta và yên nghỉ tại Nghĩa trang Thành phố HCM.
Với 72 tuổi đời, 56 năm họat động cách mạng trung kiên, mẫu mực, suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng phụ nữ với đức tính khiêm tốn, vị tha, nhân hậu, giản dị, dịu hiền và luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, bà Ba Định đã là người phụ nữ tiêu biểu nhất, xứng đáng với tám chữ vàng mà Bác Hồ kính yêu đã tặng cho phụ nữ Việt Nam “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”.
Để tri ân công lao đóng góp của nữ tướng Nguyễn Thị Định, ngày 30/8/1995, bà được Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Từ khi thành lập đến nay,Hội LHPNVN đã phát động những phong trào thi đua yêu nước nào?
Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập (1945), phụ nữ Việt Nam tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước “Diệt giặc đói”, “Diệt giặc dốt”, “Diệt giặc ngoại xâm” góp phần xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng non trẻ.
- Phong trào thi đua yêu nước của phụ nữ từ tháng 9 đến tháng 12 năm 1945: Phụ nữ là lực lượng đông đảo đã tích cực tham gia vào các phong trào do Chính phủ phát động như:
* Phong trào “Không bỏ một tấc đất hoang”
* Phong trào “Tuần lễ vàng”
* Phong trào “Bình dân học vụ”
* Phong trào “Hũ gạo kháng chiến”
* Phong trào “Bảo trợ thiếu nhi”
* Phong trào “Cứu đói”
- Giai đoạn từ 1946 – 1954 Phụ nữ tích cực tham gia vào các phong trào do Hội LHPN Việt Nam phát động:
* Phong trào “Phụ nữ tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm”
* Phong trào “Phụ nữ học cày, học bừa”
* Phong trào “Phụ nữ chức nghiệp”
* Phong trào “Chống bắt lính”
* Phong trào “Vận động binh sĩ trở lại quê hương”
* Phong trào “Tầm vông diệt giặc”
* Phong trào nữ du kích Hoàng Ngân “đòn gánh đánh càn”
- Năm 1960 tại miền Nam có phong trào “Đồng khởi”. Cán bộ phụ nữ các cấp tiến hành hoạt động bí mật trong lòng địch; vận động, tập hợp quần chúng vào các tổ chức công khai, bán công khai, tranh thủ thế hợp pháp đấu tranh với địch
- Tháng 3/1961, Hội LHPNVN đã phát động phong trào thi đua “5 tốt” ở miền Bắc với những nội dung sau:
* Đoàn kết, sản xuất, tiết kiệm tốt
* Chấp hành chính sách tốt
* Tham gia quản lý tốt
* Học tập chính trị, văn hóa, kỹ thuật tốt
* Xây dựng gia đình, nuôi dạy con tốt
Kết quả có 70.000 phụ nữ đạt danh hiệu “Phụ nữ 5 tốt”
- Phong trào thi đua “5 tốt” ở miền Nam có nội dung:
* Đoàn kết đấu tranh chính trị, vũ trang, binh vận tốt
* Lao động sản xuất, tiết kiệm tốt
* Chăm sóc nuôi dưỡng thương binh tốt
* Học tập văn hóa, chính trị, chuyên môn tốt
* Rèn luyện tư cách đạo đức tốt.
- Phong trào thi đua “Kết nghĩa Bắc-Nam”
- Ngày 9/3/1965, Hội LHPN Việt Nam phát động phong trào thi đua “Ba đảm đang” với nội dung:
* Đảm đang sản xuất và công tác, thực hành tiết kiệm, thay thế nam giới chiến đấu
* Đảm đang gia đình, khuyến khích chồng con, anh em đi chiến đấu
* Đảm đang phục vụ chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu
Kết quả: có 4.000.000 phụ nữ đạt danh hiệu “Phụ nữ Ba đảm đang”.
- Ngày 8/3/1978, Hội LHPN Việt Nam phát động phong trào thi đua “Người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” nêu lên trách nhiệm của phụ nữ đối với Tổ quốc, đối với gia đình và bản thân với các nội dung:
* Lao động, sản xuất, tiết kiệm, chấp hành chính sách tốt.
* Phục vụ chíên đấu và sẵn sàng chiến đấu, động viên chồng conđi chiến đấu, thay thế chồng con trong công việc hậu phương
* Tổ chức gia đình tốt, nuôi dạy con theo 5 điều Bác Hồ dạy.
* Đoàn kết, học tập, thương yêu giúp nhau cùng tiến bộ
Kết quả: Có 1.386.969 phụ nữ đạt danh hiệu “Người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" 10 năm liên tục.
- Ngày 8/3/1989, Hội LHPN Việt Nam phát động Cuộc vận động “Phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình”:
* Vận động chị em tương trợ giúp đỡ nhau về giống, vật tư, ngày công lao động và kinh nghiệm sản xuất; Phối hợp với các ngànhvà các đoàn thể bạn để hướng dẫn, giúp đỡ chị em hiểu biết và ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật trong các hoạt động sản xuất, dịch vụ; Đề xuất với các cơ quan chính quyền, các tổ chức kinh tế có chính sách, biện pháp hỗ trợ kinh tế gia đình và các mặt vốn, giống, vật tư, nguyên liệu, giá cả, thuế tiêu thụ sản phẩm...
- Cuộc vận động “Nuôi dạy con tốt, góp phần hạn chế trẻ suy dinh dưỡng và bỏ học":
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét